Các Làng Nghề Nổi Tiếng Tại Việt Nam

Các Làng Nghề Nổi Tiếng Tại Việt Nam

Các nghề thủ công ở Việt Nam bắt nguồn từ văn hóa lúa nước thời xưa khi ông cha ta có thói quen tự chế tạo cho bản thân và gia đình những công cụ cần thiết phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, công việc đồng áng và nghỉ ngơi thư giãn. Những sáng tạo đơn thuần đó được gìn giữ từ đời này sang đời kia và được mở rộng dần giúp hình thành nên các làng nghề truyền thống ở Việt Nam.

Các nghề thủ công ở Việt Nam bắt nguồn từ văn hóa lúa nước thời xưa khi ông cha ta có thói quen tự chế tạo cho bản thân và gia đình những công cụ cần thiết phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, công việc đồng áng và nghỉ ngơi thư giãn. Những sáng tạo đơn thuần đó được gìn giữ từ đời này sang đời kia và được mở rộng dần giúp hình thành nên các làng nghề truyền thống ở Việt Nam.

Làng nghề làm giấy dó Phong Khê -  Bắc Ninh

Làng nghề truyền thống làm giấy dó ở phường Phong Khê, tỉnh Bắc Ninh đã có tuổi đời 800 năm.

Nghề thủ công truyền thống này sản xuất giấy dó từ vỏ những cây dó (cây dó giấy, cây dó liệt, cây dướng). Các loại giấy dó được làm ra ở làng nghề thủ công Phong Khê thường là : giấy phương, giấy trúc, giấy khay, giấy để tạo giấy sắc, giấy vua phê, giấy hành ri, giấy dó bìa, giấy sắc, giấy moi, giấy xề,…

Những tờ giấy dó được các làng truyền thống Việt Nam dùng để vẽ tranh, làm giấy điệp cho tranh dân gian Đông Hồ, ngoài ra giấy dó cũng được làng nghề truyền thống dùng để ghi chép lịch sử, lưu giữ các tài liệu, làm quạt, bao bì, giấy chống ẩm, sản xuất tấm cách âm, cách nhiệt, màng loa máy thu thanh.

Các công đoạn của nghề truyền thống làm giấy dó:

Thu hoạch vỏ cây dó từ rừng, thường thu hoạch từ tháng 8 đến tháng 10 hàng năm vì khi đó thời tiết nắng nóng khiến vỏ cây dễ bị bong hơn.

Cắt thành từng khúc dài chừng 2m, nấu và ngâm vỏ cây dó trong nước vôi trong vòng 3 tháng, bóc bỏ lần vỏ đen, giã bằng cối hoặc chày rồi dùng chất nhầy từ cây mò tạo hỗn hợp kết dính, pha thêm nước để làm dung dịch làm giấy, lỏng hay đặc tùy vào đồ dày giấy.

Dùng “liềm seo” (khuôn có mành trúc, nứa hay dây đồng ken dày) để seo giấy bằng cách chao đi chao lại trong bể bột.

Ép, phơi, sấy, nén hay cán phẳng lớp bột trên liềm để thu được tờ giấy dó.

Xơ dó kết hợp lại với nhau như mạng nhện nhiều lớp, làm cho tờ giấy rất xốp và nhẹ, có trọng lượng riêng băng một nửa các loại giấy sản xuất công nghiệp. Bên cạnh đó, giấy dó rất bền, dai, không nhòe khi viết, vẽ, ít bị mối mọt, giòn gãy hay ẩm nát. Chính những điều trên tạo nên nét độc đáo sản phẩm của các làng nghề cổ truyền.

Từ làng nghề làm giấy ở Bắc Ninh, giấy dó Việt Nam đã được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới và rất được khách hàng ưa chuộng, một trong những niềm tự hào của các nghề thủ công ở Việt Nam.

Làng nghề truyền thống mây tre đan Phú Vinh – Hà Nội

Làng nghề truyền thống mây tre đan Phú Vinh là một trong những làng nghề thủ công lâu đời tại Việt Nam hiện ở xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Cùng với các làng nghề truyền thống khác, làng nghề Phú Vinh đã làm nên lịch sử nghề mây tre đan trong suốt hàng thập kỷ qua.

Sản phẩm từ nghề truyền thống mây tre đan rất phong phú, bao gồm bàn ghế mây tre, tủ mây, kệ mây, chao đèn, hoành phi, lẵng mây, bát và sàng mây,... Mỗi sản phẩm đều mang đậm dấu ấn nguyên bản của truyền thống. Ngoài ra, mây còn có thể được kết hợp với các vật liệu khác mây tre khác như tre trúc, lưới mây, tạo nên nhiều hoạ tiết độc đáo, đẹp mắt. Những sự kết hợp này mang đến vẻ hiện đại và tinh tế, làm nổi bật tính thẩm mỹ của từng sản phẩm.

Các bước làm ra một sản phẩm mây tre đan gồm:

Phơi tái nguyên liệu rồi đem ngâm hoá chất tầm 10 ngày để chống mối mọt.

Vớt ra đem nghiến mấu, cạo vỏ, đánh bóng và phơi.

Đưa tre vào lò, dùng rơm, rạ hoặc lá tre hun lấy mấu rồi lấy ra để nguội và đem lên uốn thẳng.

Đan các thanh nguyên liệu để làm thành sản phẩm.

Màu sắc thành phẩm mây tre đan có nhiều loại, nghệ nhân có thể giữ màu nguyên bản của mây hun hoặc hỗ trợ pha chế sơn PU lên sản phẩm.

Ngành nghề truyền thống mây tre đan có cách tạo màu tự nhiên rất độc đáo. Nghệ nhân dùng nan tre, nan mây đem chuốt cho mượt rồi phơi khô, đem nhúng vào nước lá cây sỏi băm nhỏ đã nấu sôi. Cách này không ảnh hưởng đến sức khoẻ mà còn đảm bảo độ bền màu lên đến 30-40 năm, góp phần tạo thương hiệu cho mây tre Việt Nam.

Các làng nghề thủ công mỹ nghệ của Việt Nam không chỉ là nơi gìn giữ truyền thống mà còn trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước, đặc biệt phải kể đến làng nghề Phú Vinh. Sản phẩm mây tre đan tại đây đã và đang xuất khẩu sang nhiều quốc gia, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, và các nước châu Âu (chiếm 60% sản lượng). Trong nước, Mây Tre Đan Trà hiện là đối tác chính của làng nghề Phú Vinh, mang đến cho người tiêu dùng Việt Nam những sản phẩm thủ công mây tre đan chất lượng cao. Các sản phẩm được ưa chuộng nhất có thể kể đến như sofa mây, ghế mây, bàn mây,... và đồ trang trí như gương mây, đĩa hoa mây, đèn mây, hộp giỏ quả mây,...

Nét đẹp dịu dàng của đất mẹ phù sa

An Giang không chỉ đẹp về cảnh sắc mà còn là nơi lưu giữ nhũng nét đẹp truyền thống, đậm đà văn hóa dân tộc Việt. Đây cũng chính là một trong những điểm thu hút khách du lịch của tỉnh thành miền Tây thuộc đồng bằng sông Cửu Long này.

Hầu như nhà nào cũng có những khung cửi để dệt những tấm vải may trang phục cho gia đình và để bán, làm cho thổ cầm Chăm ngày càng thăng hoa,trong đó có thổ cẩm Châu Giang.

Dệt Thổ Cẩm là một nghề truyền thống lâu đời của người Chăm ở Tân Châu ( An Giang ). Nguyên liệu để dệt là tơ sợi và nhuộm bằng màu tự nhiên từ mủ cây, vỏ cây và trái cây, làm cho màu sắc trên sản phẩm rất đặc biệt và bền. Hoa văn được dệt lên các đồ vật đều có ý tưởng sáng tạo từ truyền thống đến hiện đại càng làm tăng thêm giá trị nghề dệt nơi đây.

Cạnh bờ sông Hậu mênh mang của Đồng bằng sông Cửu Long trù phú có một làng nghề dệt chiếu rất lâu đời và ngôi chợ hơn 100 năm tuổi thuộc huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Chợ chiếu Định Yên còn được người dân địa phương gọi là chợ “ma” bởi sinh hoạt khá lạ lùng của nó!

Làng chiếu Định Yên là làng nghề thủ công truyền thống có từ lâu đời. Những người bản địa cố cựu cũng không biết làng nghề có tự bao giờ. Theo các nhà nghiên cứu thì cư dân làng chiếu Định Yên có gốc gác từ đồng bằng ven biển Bắc Bộ (Thái Bình, Nam Định). Khi vào phương Nam, lưu dân đã mang theo nghề dệt chiếu truyền thống; các hoa văn, họa tiết và kỹ thuật dệt, in trên mặt chiếu đã chứng minh điều này.

Bên cạnh vẻ đẹp trù phú mà thiên nhiên ban tặng, Cần Thơ còn là nơi được mọi người biết đến bởi sự đa dạng phong phú về các làng nghề truyền thống được lưu truyền từ nhiều thế hệ. Một trong những làng nghề nổi tiếng đó là làng nghề chằm nón lá tại ấp Thới Tân A, huyện Thới Lai, Cần Thơ, với lịch sử hơn lâu đời hơn 70 năm.

Nơi đây không những mang nét trù phú của những làng xóm nép mình dưới rặng dừa mà còn mang dáng dấp xa hoa, lộng lẫy của đô hội sầm uất, chẳng thế mà ở đây lại nổi danh với câu ca: “Cần Thơ có bến Ninh Kiều Có dòng sông đẹp với nhiều giai nhân”.

Các làng nghề truyền thống là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa, nghệ thuật của ông cha ta chính vì vậy cần lưu giữ và phát triển. Nhiều làng nghề đang phát triển và vươn ra thế giới nhưng cũng có những làng nghề đang dần mai một. Cần có những biện pháp để hỗ trợ làng nghề có thêm cơ hội phát triển.

Trên đây là một số làng nghề truyền thống nổi tiếng với những sản phẩm độc đáo, tinh xảo mà

muốn được chia sẻ với bạn đọc, để chúng ta hiểu hơn về lịch sử, về văn hóa đất nước và cùng nhau gìn giữ những giá trị văn hóa này.

36 Phan Huy Ích, P15, Quận Tân Bình, HCM

Hotline: 0912228997 - 0961938388

1.  Làng Gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội)

Bát Tràng là làng gốm cổ truyền nổi tiếng nằm ở bờ Bắc sông Hồng, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Từ Bạch Thổ phường, nơi những dòng họ đầu tiên từ Thanh Hóa, Ninh Bình, mà mở đầu là dòng họ Nguyễn Ninh Tràng đến sinh cơ lập nghiệp, trải qua hơn 500 năm lịch sử thăng trầm, các thế hệ nối tiếp đã gìn giữ, lưu truyền và làm nên danh tiếng của một làng nghề ở khắp trong và ngoài nước. Gốm Bát Tràng sản xuất từ loại đất sét trắng đặc biệt. Người thợ thủ công chỉ dùng tay để nắn nót sản phẩm làm ra, sau đó vẽ tranh, tráng men rồi đưa vào lò nung.

Sản phẩm gốm sứ Bát Tràng tinh xảo, sắc nét với đủ kiểu đủ hình: chén, bát, lọ hoa, chậu, lư hương... không bị ngấm nước, không bị nhạt màu theo thời gian. Men Bát Tràng độc đáo, tinh tế với những bí quyết gia truyền làm nên nét đặc trưng riêng cho sản phẩm gốm sứ của làng. Và đó cũng chính là điều khiến khách tham quan phải trầm trồ khi có dịp ghé thăm.

2. Làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ (Hà Nội)

Làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ ở phía bắc Hà Tây (Hà Nội) là một làng nghề truyền thống có từ thời nhà Lý. Tổ của nghề này là ông Trương Công Thành, nguyên là một vị tướng tham gia trong đội quân của Lý Thường Kiệt, sau khi đánh tan quân Tống, ông về làng mở nghề khảm trai. Hiện nay ở làng còn đền thờ ông.

Nét nổi bật của tranh khảm trai Chuông Ngọ là những mảnh trai không vỡ, luôn phẳng, được gắn xuống gỗ khít, đẹp. Các mặt hàng chính của Chuông Ngọ là: tủ khảm, giường khảm… và những sản phẩm đơn giản như: bàn cờ tướng, tranh treo tường, đũa, khay… Gần đây, do nhu cầu của thị trường, nghề khảm trai ở đây đã phát triển mạnh để cung cấp hàng khắp trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài.

3. Làng Lụa Vạn Phúc (Hà Đông – Hà Nội)

Mặc dù chỉ cách trung tâm thành phố Hà Nội chừng 10km nhưng ngôi làng bên dòng sông Nhuệ này vẫn giữ được những nét đặc trưng của một làng nghề truyền thống như hình ảnh cây đa cổ thụ, giếng nước, sân đình, buổi chiều vẫn họp chợ dưới gốc đa trước đình. Bước chân tới cổng làng đã nghe thấy từng tiếng "lạch cạch” của những khung cửi phát ra từ những xưởng dệt.

Bà tổ nghề dệt lụa ở Vạn Phúc có tên là Lê Thị Nga, hiện trong làng còn có đền thờ bà. Lụa Vạn phúc nổi tiếng là "mịn mặt, mát tay”. Các mặt hàng lụa đa dạng: Lụa vân, Lụa the, Lụa xa, Lụa quế, Gấm…

Lụa Vạn Phúc không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới.

4. Làng tiện gỗ Nhị Khê (Hà Nội)

Trước đây, nghề tiện chỉ chuyên tiện đồ gỗ thờ tự, gia dụng như: đài nến, ống hương, bát nhang, đấu đong thóc, chân bàn ghế, tủ… Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, nghề tiện giờ đây còn tham gia vào sản xuất các mặt hàng gia dụng cao cấp như: mành rèm cửa, đệm ghế ngồi ô tô, đồ trang trí nội thất, nhà cửa… Để phù hợp với yêu cầu của thị trường, làng nghề còn chuyển sang tiện các loại sản phẩm từ nguyên liệu đá sừng… thành đồ trang sức, mỹ nghệ độc đáo và tinh xảo, cho giá trị kinh tế cao như: bình, lọ, hộp đựng tăm, gạt tàn thuốc lá, các con vật quý…

Nghề gốm ở Thổ Hà phát triển rực rỡ từ thế kỉ 14. Đây là một trong ba trung tâm gốm sứ cổ xưa nhất của người Việt, bên cạnh Phù Lãng (Quế Võ, Bắc Ninh) và Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội). Thổ Hà mang những nét đặc sắc riêng hiếm có: độ sành cao, không thấm nước, tiếng kêu như chuông, màu men nâu đỏ mịn màng, ấm áp và gần gũi. Gốm có độ bền vĩnh cửu dù được chôn trong đất, ngâm trong nước. Làng chỉ làm đồ gốm gia dụng, những chum vại, tiểu sành, chĩnh chõ nổi tiếng một thời. Những mảnh gốm xưa còn sót lại trên các bức tường vẫn nguyên hình vẹn trạng, hồn gốm như còn đọng mãi.

6. Làng nghề đồ gỗ mĩ nghệ Đồng Kỵ (Bắc Ninh)

Làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ là một làng nghề nổi tiếng từ xa xưa. Đồng Kỵ nay thuộc xã Đồng Quang, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách thủ đô Hà Nội khoảng 20km về phía đông bắc. Làng nghề Đồng Kỵ cung cấp gần như đầy đủ các mặt hàng đồ gỗ mỹ nghệ cao cấp cho sinh hoạt, trang trí nội thất hay thờ cúng…  Những sản phẩm từ Đồng Kỵ đều được làm từ các loại gỗ quí như: gụ, trắc, hương, mun, nu, sưa…

Với thu nhập hàng trăm tỉ đồng/năm, sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ đã tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động không chỉ của làng mà còn thu hút thợ của các nơi khác đến.

7. Làng Tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh)

Đông Hồ là một làng chuyên vẽ tranh dân gian nổi tiếng ở Việt Nam, Đông Hồ thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Nghề vẽ tranh dân gian ở đây đã có từ lâu đời. Xưa, làng chỉ vẽ tranh để bán trong dịp Tết Nguyên Đán nhưng nay, tranh dân gian Đông Hồ được vẽ cả những ngày thường để phục vụ khách du lịch. Nguyên liệu để vẽ tranh là giấy dó và màu là: gạch non, lá cây, rể cây đốt thành than. Muốn cho tranh có độ óng ánh người ta dùng vỏ sò, nghêu nung lên thành vôi, giả nhỏ, trộn với nhựa cây phết đều lên giấy dó sau đó bắt đầu vẽ. Tranh dân gian Đông Hồ có nhiều mảng: tranh động vật: chó, mèo, trâu, bò, gà, lợn..., mảng "hứng dừa; đám cưới chuột; đánh ghen” xem rất thích mắt. Hầu hết tranh Đông Hồ đều thể hiện ước vọng hòa bình, hạnh phúc, ấm no... cho nên thường được treo trong nhà trong những dịp Xuân về.

8. Làng  Gốm Chu Đậu (Hải Dương)

Làng nghề gốm Chu Đậu  thuộc xã Thái Tân, Huyện Nam Sách đã nổi tiếng trên thế giới từ hơn 500 năm nay. Các sản phẩm gốm Chu Đậu đang được lưu giữ tại nhiều bảo tàng quốc gia trên thế giới như Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Bỉ, Nhật Bản, Hà Lan… và trong sưu tập cá nhân của nhiều nước trên thế giới. Một trong những điểm nổi bật của gốm Chu Đậu là các đường nét hoa văn. Hoa văn cổ của Chu Đậu phần nhiều là sen, cúc, dưới nhiều dạng khác nhau và hàng chục loại hoa văn cách điệu khác.

9. Nghề thêu ren Văn Lâm  (Ninh Bình)

Ở Văn Lâm hiện nay, có rất nhiều gia đình trang bị các loại khung thêu, với nhiều kích cỡ khác nhau. Dưới bàn tay tài hoa của người thợ thêu, qua những sợi chỉ mảnh mai, nhiều màu sắc trên nền vải được chọn, những tác phẩm nghệ thuật tinh tế đã ra đời. Đường nét thêu ren rất tinh xảo, uyển chuyển, mềm mại, thanh tú nhưng lại sống động mịn màng như nét vẽ của người họa sĩ. Sản phẩm thêu ren rất phong phú như: ga trải giường, rèm cửa, gối, khăn bàn, khăn tay, tranh, ảnh....

10. Làng Chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình)

Là làng chạm khắc kim loại quý thuộc xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương. Người khởi nghiệp là nghệ nhân chạm bạc Nguyễn Kim Lâu. Ông đã tới và truyền dạy nghề cho người dân Đồng Xâm cách nay hơn 300 năm. Hiện nghề chạm khắc kim loại quý tại làng ngày càng phát triển và được nhiều người biết đến.

11. Làng nghề Kim hoàn Kế Môn (Thừa Thiên – Huế)

Làng Kế Môn thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế là làng nghề kim hoàng nổi tiếng hơn 300 năm nay. Vị tổ của làng nghề này là ông Cao Đình Độ, người làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa, di cư vào làng Kế Môn vào cuối đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Đến đời vua Quang Trung, ông Độ được triệu vào cung lập Cơ vệ ngành ngân tượng chuyên làm đồ trang sức cho Hoàng gia. Đến đời vua Gia Long, Cao Đình Độ và Cao Đình Hương (con trai ông) vẫn được giữ lại làm ngân tượng cho đến khi mất (1810; 1821).

Sản phẩm kim hoàn ở Kế Môn nổi tiếng có chất lượng tốt so với nhiều nơi khác với kỹ thuật tay nghề tinh xảo và chạm khắc cầu kỳ được làm ra bởi những người thợ có kinh nghiệm, khéo tay và giàu khiếu thẩm mỹ sáng tạo, thể hiện rõ nhất là trên các đồ trang sức như vòng, kiềng, nhẫn, lắc, dây chuyền, khuyên tai bằng vàng hoặc bạc.

12. Làng nón Tây Hồ - Phú Vang (TT Huế)

Nón lá Tây Hồ nổi tiếng bởi độ mỏng, thanh, màu sắc nền nã và đường kim, mũi chỉ đều, đẹp nên người tiêu dùng rất yêu chuộng. Nón lá là vật trang sức làm duyên thêm nét đẹp của những thiếu nữ và là vật che nắng hữu hiệu của nhiều người. Người dân quê đi chợ, đi làm ruộng không thể thiếu chiếc nón lá đội đầu. Nón lá đã gắn bó với cuộc sống của người nông dân Tây Hồ một nắng hai sương trên đồng ruộng một cách tự nhiên và bền bỉ dù cuộc sống đã có nhiều đổi thay.

Không chỉ nổi tiếng với nón lá bài thơ, dân làng Tây Hồ còn rất khéo léo khi tạo ra những chiếc nón lá kè hai lớp bền, đẹp, đội mát.

13. Làng Đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng)

Làng đá mỹ nghệ Non Nước được hình thành từ thế kỷ 18 do ông Huỳnh Bá Quát mang nghề từ tỉnh Thanh Hóa vào khai thác. Mấy mươi năm sau, làng Quan Khái (nay là phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn) đều sinh sống và phát triển bằng nghề này. Những sản phẩm đá mỹ nghệ ở đây như: tượng Phật, tuợng Thánh, tượng người và muôn thú cũng như các loại vòng đeo tay, đeo cổ... đều được đẽo, tạc từ những khối đá cẩm thạch có vân rất đẹp được lấy từ Ngũ Hành Sơn. Từ đất đá vô cảm, người nghệ nhân làng mỹ nghệ Hòa Hải đã thổi vào đó tâm hồn của con người, để rồi những thứ quà tinh xảo thuộc cả mô típ truyền thống và hiện đại nơi đây theo chân du khách có mặt khắp nơi trên thế giới.

14. Làng Điêu khắc gỗ Kim Bồng (Hội An – Quảng Nam)

Kim Bồng là làng nghề chạm trỗ điêu khắc gỗ nổi tiếng từ xa xưa. Kim Bồng thuộc phường Cẩm Kim, thành phố Hội An. Nghề mộc ở đây có nguồn gốc xuất xứ từ miền Bắc, được các nghệ nhân mộc làng Kim Bồng học hỏi, phối hợp với nghệ thuật chạm khắc của người Chăm, Trung Hoa và Nhật Bản để tạo nên những tác phẩm điêu khắc gỗ mang tính mỹ thuật và triết học cao.

Sản phẩm điêu khắc gỗ của Kim Bồng đã hiện diện ở nhiều gia đình, nhiều địa phương trong nước và nhiều quốc gia ở 5 châu lục.

15. Làng nghề đúc đồng Phước Kiều (Quảng Nam)

Làng nghề đúc đồng Phước Kiều thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn. Người thợ đúc Phước Kiều tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm phục vụ cho việc tế lễ, hội hè và vật dụng sinh hoạt hàng ngày như : chuông đồng, chiêng, kiểng, mõ, phèng la, lư hương, chân đèn, bình cổ…và một số nhạc cụ bằng đồng.

16. Làng nghề gốm Bàu Trúc (Ninh Thuận)

Làng nghề cổ truyền gốm Bàu Trúc là làng gốm cổ ở Đông Nam Á, tại thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, cách Phan Rang-Tháp Chàm khoảng 10 km về hướng Nam. Tại đây du khách có thể xem những nghệ nhân người Chăm trực tiếp thao tác làm ra những sản phẩm gốm bằng đôi bài tay khéo léo của mình, xem những bãi nung gốm lộ thiên và mua sắm sản phẩm gốm làm quà lưu niệm. Sản phẩm gốm rất độc đáo, được làm hoàn toàn bằng tay khéo léo cùng những công cụ thô sơ như vòng tre, vỏ sò để tạo ra những đường nét hoa văn trên sản phẩm gốm. Nghề làm gốm rất công phu, vật liệu đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm gốm ở Bàu Trúc. Đó là một loại đất sét đặc biệt được lấy bên bờ sông Quao, đem về đó đập nhỏ và trộn với cát mịn nhào nhuyễn. Lượng cát được trộn vào tuỳ thuộc theo kích thước và công dụng của mỗi loại sản phẩm. Do đó gốm Bàu Trúc hoàn toàn khác so với gốm của những nơi khác.

17. Làng nghề thổ cẩm Chăm Mỹ Nghiệp - Chung Mỹ (Ninh Thuận)

Rời làng gốm Bàu Trúc, đi về hướng Đông Nam khoảng 3 km, du khách sẽ đến thăm làng dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp-Chung Mỹ, người Chăm gọi là Chakleng. Nét độc đáo của làng nghề dệt là dệt theo dạng thủ công truyền thống, những sản phẩm thổ cẩm làm ra vẫn còn lưu giữ gần như nguyên vẹn trong từng công đoạn, bí quyết, chất liệu, hoa văn của thời xa xưa để lại. Đến đây, du khách sẽ được chứng kiến đôi bàn tay thuần thục của những người thợ, sự khéo léo của các nghệ nhân để làm nên sản phẩm thổ cẩm tuyệt đẹp. Trong những năm gần đây sản phẩm thổ cẩm Mỹ Nghiệp-Chung Mỹ ngày càng đa dạng và phong phú: ngoài chăn, áo, khăn người ta còn làm các loại khác như cà vạt, túi xách, bóp, ví… để phục vụ khách mua quà lưu niệm trong chuyến du lịch về Ninh Thuận.

18. Làng nghề gốm sứ Lái Thiêu (Bình Dương)

Bình Dương vốn nổi tiếng với nghề làm gốm. Các sản phẩm gốm sứ sản xuất ở đây đều mang những đặc điểm riêng biệt, bóng, bền, đẹp, mẫu mã phong phú được người tiêu dùng ưa chuộng. Nghề làm gốm sứ Sông Bé trước đây và Bình Dương ngày nay đã phát triển đến trình độ cao từ đồ gia dụng, đồ trang trí mỹ nghệ đến đồ sứ công nghiệp.

19.  Làng Tranh sơn mài Tương Bình Hiệp (Bình Dương)

Nổi tiếng nhất ở làng tranh sơn mài Bình Dương là làng tranh Tương Bình Hiệp, nằm cách thành phố Thủ Dầu Một 7km về phía bắc. Đến đây, du khách sẽ được chứng kiến từng công đoạn của nghề truyền thống sơn mài chỉ có ở Việt Nam. Với hàng trăm hộ làm tranh sơn mài, có hộ chỉ làm một hai công đoạn của tấm tranh rồi giao lại cho các hộ khác làm những công đoạn tiếp theo.

Có thể nói ở Tương Bình Hiệp, nghề làm tranh sơn mài đã được công nghiệp hóa với những dây chuyền sản xuất rạch ròi nhưng hoàn toàn mang tính gia đình, tinh xảo nhẹ nhàng mang đậm phong cách Á Đông. Những sản phẩm tranh sơn mài Bình Dương được người yêu tranh Việt Nam và thế giới ưa chuộng mua về treo trong nhà một cách trang trọng.

20. Làng dệt thổ cẩm Châu Giang (An Giang)

Đây là làng nghề mang nét đẹp và chiều sâu văn hoá giàu bản sắc của thổ cẩm dân tộc Chăm. Thổ cẩm Châu Giang không những mang nét đẹp truyền thống của thổ cẩm mà còn mang nét đặc sắc của văn hoá Chăm với các đường nét lạ độc đáo với nhiều loại sản phẩm thổ cẩm đa dạng như: xàrông, khăn choàng, nón, áo khoác…